Ý NGHĨA VÀ LỢI LẠC CỦA CÚNG DƯỜNG ĐÈN BƠ

“Trong tất cả các phương pháp tích lũy công đức nhờ bố thí, cúng dường đèn bơ chỉ đứng ngay sau cúng dường Tsok.” (Chagdud Tulku Rinpoche)

Đức Chagdud Tulku Rinpoche

Đức Chagdud Tulku Rinpoche

Đức Lama Tharchin Rinpoche

Cúng dường đèn bơ là cúng dường mãnh liệt nhất bởi lẽ ánh sáng của chúng tượng trưng cho trí tuệ. Ngay khi ngọn đèn xua tan bóng tối, ánh sáng của ngọn đèn biểu hiện sự tan biến của bóng tối vô minh và chứng đắc trí tuệ sáng suốt của Phật.

Dâng cúng đèn là cúng dường tánh thấy lên mắt Phật. Vì mắt Phật là mắt trí tuệ, nên chúng không có sự đối nghịch của sáng hay tối. Mắt thường của chúng ta, dù sao đi nữa vẫn bị che lấp bởi bóng tối của hai bất tịnh – Một bất tịnh thô là cảm xúc phiền não (ngã chấp) và một bất tịnh vi tế là sở tri chướng (pháp chấp).

Phật không có tâm mong cầu đối với mọi món dâng cúng, nhưng chúng ta cúng dường để tích lũy công đức và trí tuệ cho chính mình. Nhờ năng lực của tích lũy này, chúng ta có thể loại trừ mọi bất toàn của đôi mắt vô minh của mình và đạt đến tuệ nhãn toàn giác của Phật. Khi chúng ta cúng dường ánh sáng, kết quả của nó là sự chứng ngộ trí tuệ Tịnh quang trong đời này; xóa sạch tâm phân biệt, dẹp tan sự rối loạn và nhận ra Tịnh quang trong cõi bardo; và tăng trưởng trí tuệ trong mỗi đời sống cho đến khi đạt được giác ngộ.

Đèn bơ cũng được cúng dường và hồi hướng cho người chết để dẫn họ đi trong bardo bởi ánh sáng trí tuệ. Chúng ta cũng cầu nguyện rằng ánh sáng này sẽ soi đường cho toàn thể chúng sanh trong sáu cõi, tịnh hóa mọi che chướng của họ để họ có thể đánh thức tuệ giác chân thật của chính mình. Với niềm tin và lòng sùng kính chân thành, hãy quán tưởng rằng vô số thiên nữ cúng dường sẽ dâng cúng vô lượng ánh sáng đến toàn thể chư Phật, Bồ tát và Thánh chúng. Chúng ta có thể đọc tụng bài cúng đèn trong tuyển tập các bài Cầu nguyện cúng dường. Theo truyền thống Phật giáo Kim cang thừa, chúng ta tích lũy công đức để tạo ra những hoàn cảnh thuận lợi trước mắt như sức khỏe, giàu sang và trường thọ và sâu xa hơn là hiển lộ bản tánh trí tuệ của chính chúng ta.

Ý nghĩa của cúng đèn bơ là gì? Chúng ta không dâng đèn vì các bậc Giác ngộ cần nhìn thấy chúng. Đúng hơn, cúng dường ánh sáng là phương tiện để tẩy trừ bóng tối vô minh của chúng ta, thắp lên sự sáng tỏ và trí tuệ. Chúng ta dâng cúng với mong muốn ánh sáng đó sẽ soi sáng các cõi thấp và bardo, làm vơi đi bao nỗi khổ của những chúng sanh đang chìm trong bóng tối. Chúng ta cũng cầu nguyện cho toàn thể chúng sanh có được trí tuệ cao quý để thấu hiểu nhân của hạnh phúc trường cửu là những thiện nghiệp của thân, khẩu và ý. Cuối cùng, chúng ta cúng dường chúng để ánh sáng bí mật của giác tánh sẽ xuất hiện trong tâm của mọi chúng sanh và xua tan bóng tối vô minh và những che chướng của kiến chấp.

Những đối tượng tuyệt hảo và thanh tịnh để chúng ta cúng dường là Tam bảo – Phật, Pháp và Tăng; Tam căn – Bậc thầy, Bổn tôn và Dakini; và các vị Hộ pháp.

Chúng ta phải hết sức cẩn trọng trong việc cúng dường, vì công đức tạo ra phụ thuộc vào động lực thanh tịnh, sự quán tưởng và việc sắm sửa cũng như chuẩn bị vật phẩm của chúng ta. Nếu mọi việc được chú tâm thực hiện, công đức của chúng ta sẽ tăng trưởng. Nếu bạn cúng dường đúng cách thậm chí chỉ một ngọn đèn, thì công đức vô cùng lớn lao như Đức Phật đã nói với ngài Xá Lợi Phất trong kinh “Những lợi ích của cúng dường đèn” đó là vượt qua sự tính toán của toàn thể các bậc Thanh Văn và Duyên Giác, công đức có được là không thể tính đếm, chỉ các bậc Như Lai mới biết rõ tường tận.

Vào thời Đức Phật, vua A Xà Thế có lần đã cúng dường nhiều thùng dầu để đốt đèn dâng cúng Đức Phật ở Tịnh xá Kỳ Hoàn. Có một bà già rất nghèo, có tâm chí thành muốn cúng dường Đức Phật mà không có tiền. Bà thấy vua A Xà Thế làm công đức như vậy, rất lấy làm cảm kích. Bà đi xin được hai tiền, liền đến nhà hàng mua dầu.

Chủ hàng hỏi: “Bà rất nghèo túng, xin được hai tiền, sao không mua đồ ăn mà lại mua dầu?”.

Bà già đáp rằng: “Tôi nghe ở đời gặp Đức Phật rất khó, vạn kiếp mới được một lần. Tôi nay may mắn được sinh đời Phật, mà chưa có dịp cúng dường. Ngày nay tôi thấy vua làm việc đại công đức, tôi tuy cùng khổ, cũng muốn cúng dường ngọn đèn để làm căn bản cho đời sau”.

Lúc bấy giờ người chủ quán cảm phục chí nguyện của bà già, liền đong cho thêm ba tiền thành ra năm tiền dầu.

Bà đến trước Đức Phật thắp đèn lên, tự nghĩ dầu thắp không quá nửa đêm, bà phát nguyện rằng: “Con không có gì cúng dâng Phật, ngoại trừ cây đèn nhỏ này. Nhưng do sự cúng dường này, mong cho con đời sau có trí tuệ. Mong cho con giải thoát tất cả hữu tình ra khỏi bóng tối ngu si. Mong cho con tịnh hóa tất cả những cấu uế chướng ngại của họ, và đưa họ đến giải thoát”.

Đêm ấy tất cả các ngọn đèn của vua cúng dường, có ngọn tắt, có ngọn đỏ. Riêng ngọn đèn của bà lão thì chiếu sáng hơn các ngọn đèn khác, suốt đêm không tắt, dầu lại không hao. Đến sáng, ngọn đèn của bà lão vẫn tiếp tục cháy, khi tôn giả Mục Kiền Liên đi thâu lại những cây đèn.

Khi trông thấy ngọn đèn còn cháy sáng, đầy dầu và bấc mới, ngài nghĩ: “Không lý gì để cho cây đèn này vẫn cháy vào ban ngày,” và ngài cố thổi tắt. Nhưng cây đèn vẫn cháy. Ngài lấy tay bóp, lấy y chụp lên cho nó tắt, mà nó vẫn tiếp tục cháy sáng.

Đức Phật vẫn nhìn ngài từ lúc đầu, và bảo: “Mục Kiền Liên, có phải ông muốn dập tắt ngọn đèn ấy không? Ông không làm được đâu. Ông không di chuyển được nó, chứ đừng nói là dập cho nó tắt. Nếu ông đem được bốn biển mà tưới lên cây đèn này, nó vẫn không tắt được, tại sao? Vì cây đèn này đã được đốt lên để dâng cúng với tất cả niềm sùng kính, và với tâm trí thanh tịnh. Chính động cơ ấy đã làm cho nó có công đức vô cùng”.

Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni đã nêu ra 10 lợi ích của việc cúng dường ánh sáng trong Kinh Phạm Âm :

  1. Trở thành ngọn đèn của pháp giới;
  2. Có huệ nhãn thanh tịnh nhìn thấy các cảnh giới vô hình ngay trong thân người;
  3. Thành tựu thiên nhãn thông;
  4. Đạt được trí tuệ thấu suốt thiện pháp và bất thiện pháp;
  5. Loại trừ tâm bám chấp vào sắc tướng;
  6. Luôn sống trong ánh sáng trí tuệ;
  7. Có được tái sinh trong thân người hay chư thiên;
  8. Vui hưởng cuộc sống giàu sang phú quý;
  9. Sớm được giải thoát;
  10. Chóng đạt giác ngộ.

Để hoàn tất việc cúng dường, chúng ta hãy hồi hướng công đức vì lợi ích của toàn thể chúng sanh nhờ đó mà công đức đã tích lũy sẽ không bị hư hoại.

Đức Lama Tharchin Rinpoche và Chagdud Tulku Rinpoche

Bình luận

Không có bình luận nào cho bài viết.

Viết bình luận